"Tín dụng của Việt Nam hiện nay đang ở trong giai đoạn tình thế. Do áp lực bởi các gói kích cầu mà tất cả các điều kiện tín dụng cũng như các yếu tố đảm bảo tính an toàn của hệ thống phải có sự châm chước. Và việc kiểm soát tín dụng hiện nay cần được tăng cường"- TS. Cao Sĩ Kiêm, nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Không thể điều hành theo cảm tính
Việt Nam đang vừa chống suy giảm, vừa ngăn ngừa lạm phát dựa vào 2 công cụ cơ bản là chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Ông đánh giá như thế nào về việc sử dụng hai công cụ này trong thực hiện mục tiêu?
Hai công cụ chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa vừa qua đã đóng góp tích cực để chống lạm phát và chống suy giảm kinh tế.
Trong giai đoạn đầu: chống lạm phát, chính sách tiền tệ có vai trò quyết định và đã có những thành công. Đến bây giờ chúng ta cũng không nên lạm dụng cái này nhiều.
Vì lãi suất, tỷ giá phải theo cung cầu, không thể điều hành theo cảm tính. Và chúng ta cũng không thể điều chỉnh theo kiểu tự hạ nhanh, xa rời thực tiễn. Thực ra, chúng ta cũng đã vận dụng, khai thác tương đối tốt các yếu tố.
Tuy nhiên, bây giờ không thể sử dụng dự trữ bắt buộc, lãi suất không thể giảm quá độ, hoặc không thể tăng tiền gửi quá độ. Mà phải sử dụng chính sách tài chính.
Ví dụ gói kích cầu vừa qua, kể cả chính sách miễn giảm thuế, cho ứng trước nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản, việc hoãn hoàn trả vốn đầu tư, đưa vốn vào một số lĩnh vực an sinh xã hội thông qua đường ngân sách. Đấy là đóng góp rất lớn.
Hoặc là việc sử dụng chính sách tài khóa trong việc chống suy giảm này có vai trò quyết định. Hai chính sách này đều có vai trò rất rõ nhưng sử dụng trong từng thời kỳ thì nó có khác nhau. Thời kỳ này, thời kỳ chống suy giảm thì vai trò của chính sách tài khóa rất quan trọng.
Tất nhiên phải sử dụng hài hòa, nhưng mỗi thời kỳ có một điểm nhấn khác nhau, có những khai thác ở mức độ khác nhau hệ thống chính sách này.
- Thưa ông, có nhiều ý kiến cho rằng nên giảm giá VND, một số ký kiến khác lại cho rằng còn nhiều rủi ro khác lớn hơn. Từng là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, quan điểm của ông về việc này như thế nào?
Nhà nước điều hành tỷ giá theo chính sách tiền tệ của NHTW. Việt Nam hiện điều chỉnh tỷ giá theo cung cầu. Khi cung cầu ngoại tệ thay đổi thì điều chỉnh tỷ giá theo.
Chúng ta áp dụng điều chỉnh theo biên độ, trao tính chủ động của ngân hàng thương mại cao hơn. Các NHTM có thể tự quyết định hoạt động kinh doanh của mình trên cơ sở biên độ giao động, có thể tự mua, bán ngoại tệ rất thuận tiện và chủ động. Cách điều chỉnh như vậy tốt hơn, giúp cho điều hành linh hoạt hơn kể cả hoạt động của NHTM và quản lý của NHNN
Tăng quản lý
- Thực tế thị trường luôn tồn tại 2 tỷ giá: tỷ giá của ngân hàng và tỷ giá trên thị trường chợ đen với độ vênh khá lớn?
Tỷ giá của ngân hàng là tỷ giá theo định hướng, theo cái chung của nhà nước. Còn tỷ giá trên thị trường là do các cá thể cung cầu từng thời điểm theo tâm lý, theo tự phát ở một thời gian rất ngắn trên thị trường. Ngân hàng đặt tỷ giá và đó là mức khống chế, người ta sẽ có trách nhiệm khi tỷ giá trên thị trường vượt ra khoảng ấy thì can thiệp.
Ở đây có hai vấn đề: thứ nhất là khả năng quản lý của nhà nước, và hai là cung cầu can thiệp của NHNN. Nếu hai điều đó làm tốt thì tiền ngoài sẽ giảm xuống. Còn nếu không tốt, thì cung cầu trên thị trường tự do sẽ đội lên, người đầu tư, đầu cơ sẽ hoành hành.
- Bây giờ chúng ta đã làm tốt hai yêu cầu này chưa?
Chính sách tỷ giá của NHNN hiện nay là hợp lý. Nhưng cần tăng cường quản lý hơn nữa.
Còn trên thị trường, người ta buôn bán đồng tiền theo nhu cầu, theo tâm lý, thậm chí muốn phá hoại, muốn vì lợi ích cá nhân mà tung tin đồn nhảm, kích động làm người dân hoang mang, mà chúng ta không biết xử lý như thế nào rất nguy hiểm.
Tín dụng tình thế
- Nhìn rộng hơn, ông đánh giá như thế nào trong vấn đề quản lý tín dụng của Việt Nam?
Tín dụng của Việt Nam hiện nay đang ở trong giai đoạn tình thế. Do áp lực bởi các gói kích cầu mà tất cả các điều kiện tín dụng cũng như các yếu tố đảm bảo tính an toàn của hệ thống phải có sự châm chước. Và việc kiểm soát tín dụng hiện nay phải được tăng cường.
Cho vay hiện nay có mấy loại: cho vay theo thỏa thuận, cho vay theo lãi suất bù lãi suất và trong bảo lãnh có châm chước 1 số điều kiện châm chước: nợ quá hạn cũng bảo lãnh được, tài sản thế chấp lấy ngay khoản vay làm tài sản thế chấp.
Tất cả các kênh tín dụng đang được mở ra, châm chước điều kiện, châm chước yếu tố và được nhà nước bù lãi suất.
Đây là vấn đề rất lớn, giúp sản xuất kinh doanh thoát ra được, nhưng nếu không kiểm soát chặt chẽ, nếu không theo dõi đến cùng dòng tiền đi vào đâu, có hiệu quả hay không, có bị chia chác, thất thoát hay không, có bị lợi dung hay không thì khả năng nợ xấu, nợ quá hạn của ngân hàng sẽ tăng lên rất nhanh, và rủi ro sẽ dồn cho ngân hàng rất lớn.
Vì thế, trong lúc này, việc kiểm tra, kiểm soát, giám sát cho vay đúng chuẩn, cho vay đúng tất cả yếu tố được vận dụng, phải loại bỏ hết yếu tố tiêu cực thì mới đảm bảo được khả năng phục vụ tốt. Đồng thời dư nợ quá hạn, dư nợ xấu tăng lên rất hạn chế.
Do đó phải được tập trung xử lý qua công tác thanh tra kiểm tra hoạt động cho vay như thế nào cho đúng địa chỉ, kịp thời.
- Hiện nay chúng ta đã có cơ chế nào để kiểm soát cho tới tận cùng của dòng tiền hay chưa?
Nói chung có 2 nấc. NHNN kiểm tra theo kiểu điển hình, theo kiểu từ xa, phát hiện khuynh hướng. Còn việc tự kiểm tra, giám sát của các NHTM cần phải được đặt lên, vì cái này liên quan trực tiếp đến NHTM. Tự kiểm tra mà không đảm bảo thì hậu quả sẽ đến ngay với NHTM.
Ví dụ, NHTM cho vay dễ dãi mà bất chấp điều kiện hoặc không đủ điều kiện, thì chính NHTM sẽ lãnh hậu quả trước hết. Gói kích cầu của Chính phủ mang tính hỗ trợ, để đảm bảo hạn chế những tác động do suy giảm. Tuy nhiên, không vì thế mà NHTM cho vay một cách bừa bãi, thoát ly hẳn các điều kiện quy định. Nếu không, hậu quả sẽ đến tức thì.
Việt Nam đang vừa chống suy giảm, vừa ngăn ngừa lạm phát dựa vào 2 công cụ cơ bản là chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Ông đánh giá như thế nào về việc sử dụng hai công cụ này trong thực hiện mục tiêu?
Hai công cụ chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa vừa qua đã đóng góp tích cực để chống lạm phát và chống suy giảm kinh tế.
Trong giai đoạn đầu: chống lạm phát, chính sách tiền tệ có vai trò quyết định và đã có những thành công. Đến bây giờ chúng ta cũng không nên lạm dụng cái này nhiều.
Vì lãi suất, tỷ giá phải theo cung cầu, không thể điều hành theo cảm tính. Và chúng ta cũng không thể điều chỉnh theo kiểu tự hạ nhanh, xa rời thực tiễn. Thực ra, chúng ta cũng đã vận dụng, khai thác tương đối tốt các yếu tố.
Tuy nhiên, bây giờ không thể sử dụng dự trữ bắt buộc, lãi suất không thể giảm quá độ, hoặc không thể tăng tiền gửi quá độ. Mà phải sử dụng chính sách tài chính.
Ví dụ gói kích cầu vừa qua, kể cả chính sách miễn giảm thuế, cho ứng trước nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản, việc hoãn hoàn trả vốn đầu tư, đưa vốn vào một số lĩnh vực an sinh xã hội thông qua đường ngân sách. Đấy là đóng góp rất lớn.
Hoặc là việc sử dụng chính sách tài khóa trong việc chống suy giảm này có vai trò quyết định. Hai chính sách này đều có vai trò rất rõ nhưng sử dụng trong từng thời kỳ thì nó có khác nhau. Thời kỳ này, thời kỳ chống suy giảm thì vai trò của chính sách tài khóa rất quan trọng.
Tất nhiên phải sử dụng hài hòa, nhưng mỗi thời kỳ có một điểm nhấn khác nhau, có những khai thác ở mức độ khác nhau hệ thống chính sách này.
- Thưa ông, có nhiều ý kiến cho rằng nên giảm giá VND, một số ký kiến khác lại cho rằng còn nhiều rủi ro khác lớn hơn. Từng là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, quan điểm của ông về việc này như thế nào?
Nhà nước điều hành tỷ giá theo chính sách tiền tệ của NHTW. Việt Nam hiện điều chỉnh tỷ giá theo cung cầu. Khi cung cầu ngoại tệ thay đổi thì điều chỉnh tỷ giá theo.
Chúng ta áp dụng điều chỉnh theo biên độ, trao tính chủ động của ngân hàng thương mại cao hơn. Các NHTM có thể tự quyết định hoạt động kinh doanh của mình trên cơ sở biên độ giao động, có thể tự mua, bán ngoại tệ rất thuận tiện và chủ động. Cách điều chỉnh như vậy tốt hơn, giúp cho điều hành linh hoạt hơn kể cả hoạt động của NHTM và quản lý của NHNN
Tăng quản lý
- Thực tế thị trường luôn tồn tại 2 tỷ giá: tỷ giá của ngân hàng và tỷ giá trên thị trường chợ đen với độ vênh khá lớn?
Tỷ giá của ngân hàng là tỷ giá theo định hướng, theo cái chung của nhà nước. Còn tỷ giá trên thị trường là do các cá thể cung cầu từng thời điểm theo tâm lý, theo tự phát ở một thời gian rất ngắn trên thị trường. Ngân hàng đặt tỷ giá và đó là mức khống chế, người ta sẽ có trách nhiệm khi tỷ giá trên thị trường vượt ra khoảng ấy thì can thiệp.
Ở đây có hai vấn đề: thứ nhất là khả năng quản lý của nhà nước, và hai là cung cầu can thiệp của NHNN. Nếu hai điều đó làm tốt thì tiền ngoài sẽ giảm xuống. Còn nếu không tốt, thì cung cầu trên thị trường tự do sẽ đội lên, người đầu tư, đầu cơ sẽ hoành hành.
- Bây giờ chúng ta đã làm tốt hai yêu cầu này chưa?
Chính sách tỷ giá của NHNN hiện nay là hợp lý. Nhưng cần tăng cường quản lý hơn nữa.
Còn trên thị trường, người ta buôn bán đồng tiền theo nhu cầu, theo tâm lý, thậm chí muốn phá hoại, muốn vì lợi ích cá nhân mà tung tin đồn nhảm, kích động làm người dân hoang mang, mà chúng ta không biết xử lý như thế nào rất nguy hiểm.
Tín dụng tình thế
- Nhìn rộng hơn, ông đánh giá như thế nào trong vấn đề quản lý tín dụng của Việt Nam?
Tín dụng của Việt Nam hiện nay đang ở trong giai đoạn tình thế. Do áp lực bởi các gói kích cầu mà tất cả các điều kiện tín dụng cũng như các yếu tố đảm bảo tính an toàn của hệ thống phải có sự châm chước. Và việc kiểm soát tín dụng hiện nay phải được tăng cường.
Cho vay hiện nay có mấy loại: cho vay theo thỏa thuận, cho vay theo lãi suất bù lãi suất và trong bảo lãnh có châm chước 1 số điều kiện châm chước: nợ quá hạn cũng bảo lãnh được, tài sản thế chấp lấy ngay khoản vay làm tài sản thế chấp.
Tất cả các kênh tín dụng đang được mở ra, châm chước điều kiện, châm chước yếu tố và được nhà nước bù lãi suất.
Đây là vấn đề rất lớn, giúp sản xuất kinh doanh thoát ra được, nhưng nếu không kiểm soát chặt chẽ, nếu không theo dõi đến cùng dòng tiền đi vào đâu, có hiệu quả hay không, có bị chia chác, thất thoát hay không, có bị lợi dung hay không thì khả năng nợ xấu, nợ quá hạn của ngân hàng sẽ tăng lên rất nhanh, và rủi ro sẽ dồn cho ngân hàng rất lớn.
Vì thế, trong lúc này, việc kiểm tra, kiểm soát, giám sát cho vay đúng chuẩn, cho vay đúng tất cả yếu tố được vận dụng, phải loại bỏ hết yếu tố tiêu cực thì mới đảm bảo được khả năng phục vụ tốt. Đồng thời dư nợ quá hạn, dư nợ xấu tăng lên rất hạn chế.
Do đó phải được tập trung xử lý qua công tác thanh tra kiểm tra hoạt động cho vay như thế nào cho đúng địa chỉ, kịp thời.
- Hiện nay chúng ta đã có cơ chế nào để kiểm soát cho tới tận cùng của dòng tiền hay chưa?
Nói chung có 2 nấc. NHNN kiểm tra theo kiểu điển hình, theo kiểu từ xa, phát hiện khuynh hướng. Còn việc tự kiểm tra, giám sát của các NHTM cần phải được đặt lên, vì cái này liên quan trực tiếp đến NHTM. Tự kiểm tra mà không đảm bảo thì hậu quả sẽ đến ngay với NHTM.
Ví dụ, NHTM cho vay dễ dãi mà bất chấp điều kiện hoặc không đủ điều kiện, thì chính NHTM sẽ lãnh hậu quả trước hết. Gói kích cầu của Chính phủ mang tính hỗ trợ, để đảm bảo hạn chế những tác động do suy giảm. Tuy nhiên, không vì thế mà NHTM cho vay một cách bừa bãi, thoát ly hẳn các điều kiện quy định. Nếu không, hậu quả sẽ đến tức thì.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét